Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Sáng mãi lẽ sống “vị nhân sinh”

Chân dung nhà văn, liệt sĩNam Cao.


Ước mong có ngày đến viếng nhà văn, liệt sĩ Nam Cao tại “làng Vũ Đại ngày ấy”, nơi đã trở thành một địa chỉ văn hóa lừng danh với những nhân vật văn học như Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, anh giáo Điền... Bỗng chốc trở thành rất gần với chúng tôi. Biết tin Đoàn thanh niên tình nguyện của quân đội đang tổ chức khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho đối tượng chính sách trên địa bàn Hà Nam, anh Nguyễn Đức Toàn, bí thơ Tỉnh đoàn Hà Nam liền ngỏ lời mời Đoàn đến thăm mộ nhà văn Nam Cao. Trưởng ban Thanh niên Quân đội Thái Đức Hạnh tức khắc đồng ý, ngặt nỗi kế hoạch hoạt động của Đoàn đã “chật như nêm” nên các đại biểu thanh niên đều đồng tình sẽ dành thời gian nghỉ trưa để đến tỏ bày lòng thành kính trước nhà văn, liệt sĩ mà mỗi câu viết của ông đã thấm sâu vào tâm hồn sao đời học sinh như những tuyên ngôn nghệ thuật chân chính, nhân đạo nhất.

Nhà văn Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29-10-1915 tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân, huyện Nam Sang (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Ông hy sinh ngày 30-11-1951 tại xã Gia Trấn, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Trong tác phẩm nối tiếng của ông, để tránh những phiền phức có thể gặp với chính quyền thực dân, ông đã “đổi” tên làng mình từ Đại Hoàng thành Vũ Đại. Và không ngờ về sau, nơi ông nằm xuống ở một ngôi làng cũng có tên Vũ Đại. Cuộc đời của ông, từ lúc sinh thành đến khi ngã xuống, có không ít câu chuyện nhuốm màu huyền thoại như thế.

Ông Trần Hữu Vịnh, hậu duệ của nhà văn dẫn chúng tôi đến dâng hương và thăm Nhà tưởng vọng trong Vườn hiện thực Nam Cao. Ở đây, những hiện vật, đẵn là những tác phẩm văn học, báo chí được trưng bày theo trật tự thời kì vừa đề đạt quá trình hình thành, hoàn thiện ý kiến nghệ thuật của một nhà văn-chiến sĩ; vừa phần nào kể lại những chặng đường truân chuyên của số một trí thức mất nước tìm đến với lý tưởng cách mệnh. Đến nay, những sáng tác của Nam Cao đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời kì, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông càng trình diễn.# Ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

Nam Cao bước vào làng văn từ năm 1936, khi ông mới 19 tuổi, với những truyện ngắn đầu tay mang đậm màu sắc lãng mạn. Tuy nhiên, càng dấn thân vào nghiệp viết, ông càng cảm nhận rõ hơn bổn phận của người cầm bút với hiện thực cuộc sống. Trong tác phẩm "Trăng sáng", được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao, ông đã nhận ra: "Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thế chỉ là tiếng thống khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than". Và đến khi truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời, kéo theo là sự xuất hiện của tập sách “Đôi lứa xứng đôi” xuất bản năm 1941, ý kiến “nghệ thuật vị nhân sinh” của Nam Cao mới được hoàn chỉnh như một lời tuyên bố dứt khoát.

Đoàn đại biểu thanh niên quân đội thăm mộ, viếng nhà vănNam Cao.

Từ một nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực, tự tiện thức được nỗi đau người dân của một dân tộc thuộc địa, Nam Cao đã tìm đến với cách mệnh như một lẽ tự nhiên. Ông là thành viên tham gia sáng lập Hội Văn hóa cứu quốc năm 1943. Cách mệnh Tháng Tám bùng nổ, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và làm cán bộ chính quyền mới ở quê nhà. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Nam Cao lên Việt Bắc, đắm mình vào khói lửa của cuộc chiến tranh. Trong nhật ký “Ở rừng”, Nam Cao đã thực tình thổ lộ về tâm sự của một văn sĩ khi trường đoản cú lối sống tiểu tư sản để làm người cách mệnh. Ông viết: "Nhiều khi phải biết quên mình đi. Quên cái danh tiếng của mình, nếu muốn thành người hữu ích. Có cần gì phải cầy cục ghi tên mình lại cho lịch sử? Tạo ra lịch sử là một việc làm lớn lao hơn. Nhưng tạo ra lịch sử lại là sự nghiệp của số đông. Ta nên nghĩ đến cái số đông nhiều hơn ta". Trước gian khổ và hy sinh lớn lao của cuộc chiến tranh vệ quốc, mỗi người cần "biết hy sinh, biết đương đầu, tranh đấu lặng lẽ, đương đầu không nghĩ gì đến tên mình, không nghĩ đến cả thân mình nữa".

Cuối năm 1950, Nam Cao tham gia Chiến dịch Biên Giới rồi đi công tác tại Khu 4 vào khoảng giữa năm 1951. Trở ra Bắc, ông tham gia Đoàn công tác thuế nông nghiệp ở vùng địch hậu Khu 3. Ý định của ông trong đợt này là tiếp khảo sát thực tiễn kháng chiến, kiến quốc của quần chúng vùng địch hậu để hoàn thành một cuốn tiểu thuyết. Vậy nhưng, trên đường đi, ông bị địch mai phục và bắn chết ngày 28-11-1951. Những người dân chứng kiến sự kiện bi thương ấy kể rằng, sau khi nhóm công tác 3 người của nhà văn hy sinh, mặc dù nhà văn là người đạo gia tô nhưng chính quyền thực dân đã can thiệp không cho nhà thờ lấy xác ông về mai táng. Ba liệt sĩ bị giặc chôn chung trong một vũng nước nhưng đã được quần chúng ngầm đào trộm, đánh dấu và an táng. Sau này, năm 1996, sang rất nhiều rứa của gia đình và các cơ quan chức năng, chương trình “Tìm lại Nam Cao” mới xác định chuẩn xác phần mộ của ông và đưa về quê nhà mai táng ngay trên mảnh đất của các nguyên mẫu nhân vật Bá Kiến, Lão Hạc... Trong tác phẩm văn học của ông.

Nam Cao hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ (36 tuổi) nhưng những tác phẩm mang đầy triết lý nhân đạo, đương đầu vì con người của ông có sinh khí mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. Trước mộ ông giờ đây có biểu trưng trang sách, với hai dòng tuyên ngôn phản chiếu lẽ sống của nhà văn: "văn học chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có" và “sống rồi hãy viết... Góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn...”.

Thiếu tá Phạm Văn Vương, thành viên Đoàn đại biểu thanh niên quân đội nói rằng: Trong chuyến tình nguyện năm nay, được đi thăm Vườn hiện thực Nam Cao, cảm nhận về lẽ sống của nhà văn, anh như được thắp lên trong lòng mình một ngọn lửa-ngọn lửa niềm tin mãnh liệt vào lối sống đẹp trong thế cuộc mỗi con người.

Bài và ảnh: TRÚC LINH