Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Những tập tục kỳ lạ - Kỳ 12: 'Hành xác' để… giàu và đẹp

>> Những tập tục kỳ lạ - Kỳ 11: Nuôi người chết
>> Những tập tục kỳ lạ - Kỳ 10: Bú mớm kết nghĩa

"Để họ biết mình giàu và đẹp hơn”

Anh Thao Bun Sáu, Phó chủ toạ UBND xã Bờ Y (H.Ngọc Hồi), chỉ “mấy lời phi lộ” với tôi như thế về những tập tục trên của người Brâu. Anh không quên cung cấp cho tôi thông báo, người Brâu ở đây chỉ sống tập kết tại làng duy nhất là Đăk Mế (xã Bờ Y) với khoảng vài trăm người.

Còn anh Thao Lợi, Trưởng làng Đăk Mế thì bảo, giờ chỉ còn dấu vết của tục căng tai và xăm mặt, còn cà răng do bỏ lâu rồi nên chẳng thể phân biệt được. Xong, anh dắt tôi sang nhà già Y Bưi, người cho rằng mình đã sống qua 130 mùa rẫy mà không biết thực hư thế nào và bà cũng là người duy nhất trong làng được sang cả ba tập tục kỳ lạ này. Bên cạnh giường già Y Bưi là… chiếc thùng để dành sẵn. Trên tay cụ bà này lúc nào cũng trực tẩu thuốc.


Già Y Bưi, người độc nhất vô nhị trải qua ba tục cà răng, căng tai và xăm mặt - Ảnh: Lê Xuân Thọ

Tóc già bạc trắng, vết xăm trên khuôn mặt đầy đặn và vết tích của việc căng tai vẫn còn. Tuổi cao nên già không còn nhớ gì, thành thử tôi không thể lấy được bất cứ thông tin gì hệ trọng đến những dấu xăm ấy. Thế là Thao Lợi dắt tôi sang nhà già Y Giáng (80 tuổi), tuy chỉ sang căng tai và cà răng nhưng già nắm rất rõ cả việc xăm mặt. Theo già Y Giáng, cả ba luật tục này không bị buộc, chỉ ai muốn chứng tỏ mình giàu và đẹp hơn nên mới làm. Tuy không bức nhưng muốn làm những việc trên thì người đó “phải đủ điều kiện” (tức là phải giàu có), và chỉ khi nào giàu có nhất nhì trong làng mới được phép xăm mặt.

Dù là luật tục nhưng khi tiến hành lại không cần tổ chức bất kỳ lễ gì, chỉ có điều phải trải qua những cuộc hành xác. Để uốt pưng (cà răng), phải dùng lưỡi dao có răng như lưỡi cưa để cà (vì vậy đôi lúc người ta gọi là cưa răng). Việc làm này tốn rất nhiều thời kì và phải chịu nhiều thống khổ do răng bị thương tổn. Khi đã có bộ răng chấp thuận thì hái lá gong về nhai y như người Kinh nhai trầu. Lúc này lại đốt một loại cây rừng cho chảy nhựa, sau đó nhai vào nhựa này dùng để chà răng. Già Y Giáng bảo, làm như thể sẽ giúp răng hết nhột và buốt, đồng thời răng sẽ vàng (răng vàng là đẹp, theo quan niệm của người Brâu) và về sau sẽ không bị đau, sâu răng nữa.

Còn síp tiêu (căng tai) dành cho những người thuộc thứ hạng cao hơn. Người ta dùng những thanh nứa, lồ ô, tre vót tròn và nhọn. Sau đó hơ dưới lửa của một loại lá cây rừng rồi đâm vào dái tai, mỗi ngày nong một ít để đeo hoa tai bằng ngà voi vào. Bộ trằm bằng ngà voi phải mất vài tháng mới có thể hoàn thành. “Trằm bằng ngà voi rất nặng, nên đeo lâu dái tai sẽ bị kéo dài ra. Dái tai càng dài chứng tỏ trằm to, điều đó nói lên rằng chủ nhân của nó no ấm”, già Y Giáng vừa nói vừa chỉ lên dái tai của mình. Đồng thời cho biết giá trị của một vài hoa tai ấy “bèo bèo” cũng bằng một con trâu “hết lớn”.

Trưởng làng Đăk Mế, anh Thao Lợi cho biết người Brâu trước kia sống ở giáp biên giới Lào với số dân hơn 200 người. Khi về Đăk Mế, đến nay đã tăng lên khoảng 700 người. Brâu là một trong những dân tộc thiểu số ít dân cư nhất tại tỉnh Kon Tum.

Đỉnh cao của sự no ấm và đẹp trong con mắt người Brâu là những hình xăm trên khuôn mặt. Già Y Giáng cho biết: “Để chinh krăk kăng (xăm mặt) thì người đó phải thật no đủ, khuôn mặt đẹp và đầy đặn để thỏa chí… xăm những hình mong muốn. Vật dùng để xăm được làm bằng vàng, mực xăm được chiết từ một loại cây rừng mà ngày nay không ai còn rõ, chỉ biết đó là màu xanh và tím, đôi khi có màu đỏ”.

Thế những hình xăm có ý nghĩa gì? Chúng tôi hỏi. À, nó giúp người đàn bà trông “quý phái” hơn. Ngoại giả, những nét, ký tự trên hình xăm thường nói về đặc điểm của gia đình mình, hay nhằm tỏ ý gì đấy. Có khi nó là nét đặc trưng của nhóm ngôn ngữ. Hóa ra, người Brâu cũng có nhiều nhóm khác nhau với những thổ âm có nhiều điểm khác biệt. Đôi lúc, nét xăm còn cho biết nó được xăm bởi người nào và đây là điều chủ nhân của hình xăm cảm thấy kiêu hãnh.

Mai này là quá khứ

Trước khi chuyển về nơi là làng Đăk Mế bây chừ, người Brâu gần như sống chung với người Lào, do đó ba tập tục trên đều chịu sự “ảnh hưởng” của dân tộc nước bạn. Cà răng và căng tai thì sau này họ có thể tự làm, còn riêng xăm mặt đều phải bỏ một số tiền rất lớn để thuê thợ là người Lào xăm, người Brâu từ trước đến nay chưa ai làm được việc này.

Khi chuyển về chỗ ở mới, người Brâu mang theo tập tục cà răng và căng tai. Còn xăm mặt chỉ có hai người có được và nay chỉ còn mỗi già Y Bưi, tịnh không có ai xăm mới nữa. Về nơi ở mới, tiếp xúc với người Kinh nhiều nên họ thấy rằng việc cà răng là rất hiểm, nên chi tục này cũng dần mất đi. Riêng về căng tai, tục này mất đi do voi rừng ngày một khan hiếm, không có được ngà voi nên không thể thực hiện được.

Nhắc đến những đôi tai bằng ngà voi, già Y Giáng thở dài tiếc nuối: “Hồi đó mình cũng có một vài bông tai đẹp lắm, nhưng rồi do khó khăn quá nên đành bán đi. Giờ nghĩ lại thấy tiếc, nhưng nếu hồi đó không bán đi chắc gì mình sống đến hiện nay”. Tôi hỏi Thao Lợi, anh bảo nghe già bán đôi bông tai ấy vào năm 2000, không rõ được bao lăm tiền. Thế hiện nay làng mình ai còn đôi hoa tai ấy không? Tôi lại hỏi và vị trưởng làng lại lắc đầu, bảo: “Biết người làng mình bán những đôi trằm quý ấy, sợ mất đi một nét đẹp văn hóa nên một số cán bộ ở tỉnh xuống mua về để ở nhà bảo tàng”.

Lê Xuân Thọ